Scroll Top

Nghiên cứu tại Brazil: Beta-glucans cải thiện khả năng sống sót của tôm trắng nhiễm IMNV


Alberto J.P. Nunes, Ph.D.
Hassan Sabry-Neto, M.S.
Marcelo V. C. Sá, Ph.D.

Đợt bùng phát buộc chuyển đổi sản xuất từ mật độ cao sang nửa mật độ

beta-glucans
Con tôm này thu được từ ao nuôi có triệu chứng nặng nề của IMNV trong mô bụng đục.

Vào năm 2003, virus myonecrosis truyền nhiễm (IMNV) đã gây ra sự gián đoạn nghiêm trọng đối với sản xuất tôm nuôi ở Brazil sau năm năm tăng trưởng liên tục dẫn đến sản lượng kỷ lục. Virus này lần đầu tiên được phát hiện vào tháng 9 năm 2002 ở các trang trại tại bang Piauí và nhanh chóng lây lan sang các bang lân cận trong vòng sáu tháng. Kể từ đó, sản xuất đã phục hồi chủ yếu bằng cách chuyển từ phương pháp sản xuất mật độ cao sang nửa mật độ.

Các triệu chứng, điều trị

Tôm bị ảnh hưởng bởi IMNV thường có dấu hiệu mất đi độ trong suốt ở mô bụng, thường dẫn đến màu đỏ và tỷ lệ tử vong liên tục hàng ngày sau khi tôm đạt trọng lượng cơ thể 7 g. Tỷ lệ tử vong tích lũy có thể lên tới 70 phần trăm trong vòng một chu trình nuôi 120 ngày điển hình và dẫn đến tỷ lệ chuyển đổi thức ăn vượt quá 2 cho tôm nặng 12-14 g.

Cho đến nay, chưa có phương pháp điều trị hiệu quả nào đối với các bệnh virus ở tôm. Do tôm không thể phản ứng với vắc xin, việc nâng cao khả năng kháng bệnh đã được thực hiện thông qua việc kích thích hệ thống miễn dịch của chúng. Một số hợp chất đã được báo cáo tích cực thúc đẩy phản ứng miễn dịch và tăng tỷ lệ sống sót ở penaeid nuôi sau khi bị thách thức bởi virus hoặc vi khuẩn. Những hợp chất này bao gồm peptidoglycan, glucan, lipopolysaccharide và fucoidan sulfat.

Nghiên cứu tại Brazil

Trong một nghiên cứu gần đây được tài trợ bởi một khoản tài trợ từ Financiadora de Estudos e Projetos, mục tiêu của các tác giả là xác định xem một beta-1,3/1,6-glucan chiết xuất từ thành tế bào của men nở Saccharomyces cerevisiae có thể thúc đẩy tăng tỷ lệ sống sót và tăng trưởng của tôm trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei) sau khi bị thách thức qua đường miệng với IMNV hay không.

Tăng trưởng và tỷ lệ sống sót của tôm giống L. vannamei bị thách thức bằng IMNV được đánh giá trong 20 bể tròn, mỗi bể chứa 500 lít polypropylene được nuôi 57 tôm/bể (100 tôm mỗi mét vuông). Tôm được cho ăn trong 70 ngày với thức ăn sản xuất tại phòng thí nghiệm hoặc không có hoặc chứa nguồn beta-glucan.

Thiết kế thí nghiệm bao gồm một chế độ ăn kiêng và ba chế độ đối chứng (Bảng 1): COM, một chế độ ăn thương mại có hiệu suất cao được cho ăn cho tôm không bị IMNV; REF, một chế độ ăn cơ bản được sản xuất trong phòng thí nghiệm mà không có beta-glucan và được cho ăn cho tôm không bị IMNV; IREF, chế độ ăn cơ bản được cho ăn cho tôm bị thách thức miệng với IMNV; và IBET, chế độ ăn cơ bản với sự bổ sung 1.000 mg/kg beta-1,3/1,6-glucan thương mại.

Nunes, Thiết kế thí nghiệm cho tôm bị thách thức, Bảng 1

Chế độ ănThách thức miệng IMNVBổ sung Beta-1,3/1,6-glucan
COM (35.0% protein thô)Không
REFKhông*Không
(31.4% protein thô)
IREFKhông
IBET1.000 mg/kg

Bảng 1. Thiết kế thí nghiệm cho tôm bị thách thức bằng virus myonecrosis truyền nhiễm.

Các chế độ ăn gần như đồng năng lượng và đồng protein được thiết kế để có cùng thành phần dinh dưỡng, ngoại trừ việc bổ sung nguồn beta-glucan. Beta-glucan đã được bổ sung vào chế độ ăn IBET thay cho bentonite (Bảng 2). Trong suốt chu kỳ tăng trưởng, tôm được cho ăn thức ăn trong năm giờ mỗi ngày. Các bữa ăn được chia đều giữa thời gian cho ăn buổi sáng và buổi tối.

Nunes, Thành phần và giá trị hóa học của các chế độ ăn, Bảng 2

Nguyên liệuThức ăn (g/kg chế độ ăn)
REF, IREF
Thức ăn (g/kg chế độ ăn)
IBET
Thức ăn (g/kg chế độ ăn)
COM
Bột mì350.0350.0
Bột đậu nành220.8220.8
Gạo vỡ70.070.0
Bột cá, anchovy167.1167.1
Bột cá, nội tạng và cá không được sử dụng100.0100.0
Dầu cá30.030.0
Lecithin đậu nành20.020.0
Cholesterol1.51.5
Chất hút5.05.0
Muối thông thường10.010.0
Premix vitamin-khoáng10.010.0
Chất kết dính tổng hợp5.05.0
Phosphate bicalcium12.012.0
Bentonite3.62.6
Beta-1,3/1,6-glucan01.0
Thành phần hóa học
Protein thô (%, khô)31.431.336.6
Chất béo thô (%, khô)10.110.08.7
Tro (%, khô)10.010.310.6
Chất xơ thô (%, khô)5.14.37.6
Năng lượng tổng (kcal/kg)3,7063,8173,713

Bảng 2. Thành phần và giá trị hóa học chính của các chế độ ăn được sử dụng trong nghiên cứu.

Thách thức IMNV

Tôm nghi ngờ nhiễm IMNV đã được thu thập tại khu vực địa lý mà ca bệnh đầu tiên được báo cáo ở Brazil. Các con tôm được lấy mẫu có trọng lượng từ 12 đến 14 gram và có dấu hiệu rõ rệt của bệnh IMNV. Ngoài ra, tôm trong ao nuôi khảo sát đã đạt được tỷ lệ sống sót cuối cùng là 32 phần trăm thấp nhất khi thu hoạch.

Ngay sau khi bắt được, các chân pleopod của 50 con tôm đã được cố định trong dung dịch ethanol 95% để phân tích chuỗi polymerase (PCR) và PCR thời gian thực. Để đảm bảo, kích thước mẫu pleopod vượt quá nhiều so với yêu cầu phân tích. Các mẫu tôm được phát hiện âm tính với virus hội chứng Taura, virus hội chứng đốm trắng và virus hoại tử nội mô và huyết học truyền nhiễm, nhưng dương tính với IMNV.

Tại phòng thí nghiệm, tôm không bị IMNV được cho ăn với mô đã nghiền nát có chứa IMNV. Cuộc thách thức xảy ra trong ba ngày liên tiếp, khi tôm đạt trọng lượng từ 4.9 đến 6.9 gram hoặc 29 ngày sau khi tiếp xúc liên tục với chế độ ăn thử nghiệm. Tỷ lệ cho ăn trong thời gian thách thức thay đổi từ 4.0 đến 5.2 phần trăm trọng lượng sinh khối tôm ước tính. Trong thời gian thách thức virus, tôm ở các nhóm COM và REF được cho ăn thức ăn thông thường.

Kết quả

Tỷ lệ sống sót của tôm bắt đầu giảm dần sau khi bị thách thức qua đường miệng (Hình 1). Ba ngày sau khi tiếp xúc với chiết xuất IMNV, tỷ lệ tử vong ở nhóm IREF đã khác biệt về mặt thống kê so với tất cả các nhóm khác (P < 0.05).

Tỷ lệ tử vong tích lũy
Hình 1: Tỷ lệ tử vong tích lũy của tôm giống sau khi thách thức IMNV. Tuần thứ không chỉ ra ba ngày sau khi thách thức virus. Các điểm dữ liệu không cùng một chữ cái là khác nhau về mặt thống kê (P

Tỷ lệ tử vong từ 30 phần trăm trở lên đã được ghi nhận ba tuần sau khi bị thách thức virus, bất kể chế độ ăn. Tuy nhiên, ở nhóm IREF, tỷ lệ tử vong của tôm vượt quá 67 phần trăm.

Tại thời điểm thu hoạch, tỷ lệ sống sót cao nhất của tôm (69.5 ± 12.7 phần trăm) được ghi nhận ở nhóm COM (Hình 2), không có sự khác biệt thống kê so với nhóm REF. Ngược lại, tỷ lệ sống sót thấp nhất (23.20 ± 5.76 phần trăm) được ghi nhận cho tôm trong nhóm IREF. Tỷ lệ sống sót của tôm trong IBET (48.10 ± 8.53 phần trăm) cao hơn đáng kể so với nhóm IREF.

trọng lượng cơ thể
Hình 2: Tỷ lệ sống sót trung bình và trọng lượng cơ thể cuối cùng của tôm giống sau khi thách thức IMNV.

Tôm tiếp tục phát triển trong suốt thời gian nuôi. Tỷ lệ tăng trưởng hàng tuần dao động từ 0.56 gram cho 14 ngày đầu tiên nuôi đến 0.77 gram hai tuần trước khi thu hoạch. Tại thời điểm thu hoạch, trọng lượng cơ thể của tôm cao nhất (11.20 ± 0.58 gram mỗi con tôm) tương ứng với tỷ lệ sống thấp nhất (IMNV-Ref; Hình 2).

Tăng trọng tôm trong nhóm IREF cao hơn đáng kể so với các nhóm khác (P

Quan sát

Trong nghiên cứu, các động vật IREF và IBET được phát hiện rất nhạy cảm với IMNV. Ở nhóm trước, tỷ lệ tử vong trung bình cao tới 76.8 phần trăm được ghi nhận khi thu hoạch, khi động vật gần đạt trọng lượng 8 gram. Quan sát này thống nhất với các báo cáo từ các nông dân nuôi tôm. Ở các khu vực bị nhiễm, có thể tìm thấy rõ ràng dấu hiệu của IMNV trên tôm ở mọi kích thước, nhưng tỷ lệ tử vong cao nhất thường được ghi nhận khi động vật có trọng lượng từ 6 đến 8 gram.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc tiếp xúc liên tục với chế độ ăn bổ sung beta-1,3/1,6-glucan đã tăng cường tỷ lệ sống của L. vannamei sau khi bị thách thức qua đường miệng với IMNV. Tuy nhiên, tác động của beta-glucan đối với hiệu suất phát triển của tôm vẫn chưa rõ ràng, có thể do tỷ lệ tử vong cao được ghi nhận.

(Ghi chú của Biên tập viên: Bài viết này được xuất bản lần đầu vào số báo in tháng 9/10 năm 2010 của Global Aquaculture Advocate.)

Nguồn : https://www.globalseafood.org/advocate/brazil-study-beta-glucans-improve-survival-imnv-infected-white-shrimp/

Leave a comment