Scroll Top

EMS/AHPNS: Bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra


Loc Tran
Rita M. Redman
Donald V. Lightner, Ph.D.
Kevin Fitzsimmons, Ph.D.

Bệnh lý học mô trình bày như một sự thoái hóa cấp tính tiến triển của gan tụy

bacteria
Dấu hiệu rõ ràng của AHPNS ở tôm bao gồm dạ dày trống (bên trái), gan tụy nhợt nhạt bị teo và ruột giữa trống.

Ngành nuôi tôm ở châu Á, khu vực lớn nhất và năng suất nhất thế giới, đã bị ảnh hưởng vào năm 2009 bởi một bệnh mới nổi gọi là hội chứng tử vong sớm hoặc, mô tả rõ hơn, hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính. AHPNS đã bắt đầu gây ra thiệt hại sản xuất đáng kể ở miền nam Trung Quốc, và đến năm 2012 đã lan rộng sang các trang trại ở Việt Nam, Malaysia và Thái Lan.

AHPNS không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng về sản xuất và doanh thu ở các khu vực bị ảnh hưởng, mà còn gây ra những tác động thứ cấp đến việc làm, phúc lợi xã hội và sự hiện diện trên thị trường quốc tế. Bệnh này đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt đáng kể sản phẩm tôm cho thị trường toàn cầu, từ đó tác động lên giá tôm toàn cầu.

Bệnh lý

AHPNS thường xảy ra trong vòng 45 ngày ở các ao tôm với bột giống mới được thả, cả tôm hùm đen (Penaeus monodon) và tôm trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei). Các dấu hiệu rõ ràng của AHPNS là khả thi trong các cuộc kiểm tra bên ao tôm bị ảnh hưởng kèm theo mổ xác và kiểm tra các cơ quan gan tụy của tôm.

Tôm bị AHPNS giai đoạn đầu cho thấy màu sắc nhợt nhạt đến trắng của gan tụy, cũng như sự teo lại có thể làm giảm kích thước cơ quan này từ 50% trở lên. Ở giai đoạn cuối của bệnh, các vết đen hoặc đốm do sự lắng đọng melanin từ hoạt động hemocyte xuất hiện trong gan tụy. Tỷ lệ tử vong trong các ao tôm bị ảnh hưởng có thể gần 100% trong vòng vài ngày sau khi bệnh xuất hiện.

Histopathology của AHPNS trình bày như một sự thoái hóa cấp tính tiến triển của gan tụy từ hình dáng gần đến xa với sự suy giảm chức năng của tế bào biểu mô ống. Các tế bào này tròn lên và tách ra khỏi ống bị ảnh hưởng, và trở thành hoại tử trong các ống hoặc khoang ruột. Ở giai đoạn cuối của AHPNS, gan tụy cho thấy sự xâm nhập của hemocyte rõ ràng và sự phát triển của sự sinh sản vi khuẩn thứ cấp khổng lồ xảy ra liên quan đến các tế bào biểu mô hoại tử và bị lột ra. Bệnh lý đặc biệt này cho thấy tổn thương ban đầu trong gan tụy là do độc tố.

Nghiên cứu sơ bộ

Hai phương pháp ban đầu đã được thực hiện bởi Phòng thí nghiệm Bệnh lý Nuôi trồng Thủy sản Đại học Arizona (UAZ-APL) để xác định nguyên nhân của AHPNS. Các nghiên cứu này nhằm xác định một độc tố môi trường có thể trong nước, trầm tích và tảo từ các ao bị ảnh hưởng, mẫu thức ăn và chất diệt cỏ như là nguyên nhân có thể gây ra bệnh. Các nhà nghiên cứu cũng đã kiểm tra các tác nhân gây bệnh tiềm năng bằng cách sử dụng tôm đông lạnh thu thập từ các trang trại bị ảnh hưởng trong năm 2011 và 2012. Không có loại điều trị nào được tìm thấy có thể gây ra bệnh lý phù hợp với AHPNS.

Bởi vì các nghiên cứu ban đầu không truyền bệnh cho các động vật thí nghiệm, một số nghiên cứu tại chỗ ở một khu vực phát sinh AHPNS ở Việt Nam đã được thực hiện trong giữa và cuối năm 2012. Kết quả từ các nghiên cứu này cho thấy tổn thương AHPNS có thể được gây ra ở tôm thí nghiệm thông qua việc cho ăn các xác tôm bị nhiễm chưa đông lạnh, sống chung với tôm bị nhiễm và thả vào hỗn hợp vi khuẩn được cách ly từ dạ dày của một con tôm bị nhiễm. Mẫu hỗn hợp vi khuẩn được phát hiện gây ra AHPNS đã được đưa về UAZ-APL để phân tích thêm nhằm xác định tính màng lây và tác nhân gây ra AHPNS.

AHPNS
Phần mô học này của gan tụy tôm trong một bài thử thách đưa vào thụt rửa cho thấy tổn thương của một giai đoạn cấp tính của AHPNS được đặc trưng bởi việc lột ra và hoại tử của các tế bào biểu mô ống (mũi tên). Thước đo = 100 µ.
AHPNS
Phần mô học này của gan tụy tôm trong một bài thử thách ngâm cho thấy giai đoạn tiến triển của AHPNS được đặc trưng bởi viêm hemocyte, nhiễm trùng vi khuẩn và sự lột ra và hoại tử khổng lồ (mũi tên, từ trên xuống dưới). Thước đo = 50 µ.

Nghiên cứu khả năng lây nhiễm

Các thử thách bằng phương pháp ngâm hoặc thụt rửa ngược qua đường hậu môn vào gan tụy đã được sử dụng bằng việc sử dụng hỗn hợp vi khuẩn được cách ly từ tôm bị nhiễm AHPNS ở Việt Nam. Thí nghiệm 1 là một nghiên cứu ngâm với hỗn hợp vi khuẩn, trong khi thí nghiệm 2 sử dụng ngâm với các chủng vi khuẩn riêng lẻ từ văn hóa hỗn hợp. Thí nghiệm 3 là một thử nghiệm sinh học ngâm với các thuộc địa vi khuẩn riêng lẻ được cách ly từ các điều trị dương tính với AHPNS của thí nghiệm 2 và thụt rửa ngược dịch broth đã lọc được cấy với văn hóa tinh khiết của một thuộc địa vi khuẩn gây bệnh.

Ngâm trong hỗn hợp vi khuẩn đã gây ra tử vong hàng loạt và bệnh lý AHPNS giống hệt như các mẫu hiện trường bị ảnh hưởng. Thuộc địa vi khuẩn thống trị nhất được cách ly từ văn hóa hỗn hợp cũng đã có thể gây ra tử vong hàng loạt và tổn thương AHPNS trong tôm thí nghiệm trong thử thách ngâm của thí nghiệm 2. Cùng loại thuộc địa vi khuẩn được tìm thấy từ các động vật tham gia trong thí nghiệm 2 cũng có thể gây ra cùng loại bệnh lý trên tôm trong các thí nghiệm tiếp theo, xác nhận rằng AHPNS do một tác nhân lây nhiễm gây ra.

Đáng chú ý, dịch lỏng không tế bào của môi trường broth được cấy với văn hóa tinh khiết gây bệnh có thể gây ra cùng bệnh lý AHPNS ở tôm thông qua thụt rửa ngược. Bằng chứng này củng cố giả thuyết ban đầu rằng các tổn thương chính của AHPNS là do một độc tố hoặc độc tố. Sử dụng các thử nghiệm sinh hóa và sinh học phân tử, văn hóa vi khuẩn được tìm thấy gây ra AHPNS đã được xác định là một chủng của Vibrio parahaemolyticus.

Sức khỏe con người, các tác động đến an ninh sinh học

Một số chủng hiếm của V. parahaemolyticus sản xuất các độc tố bền nhiệt hemolysin trực tiếp và hemolysin liên quan bền nhiệt, chịu trách nhiệm cho bệnh tiêu chảy do thực phẩm ở những người tiêu thụ hải sản chưa nấu chín. May mắn thay, chủng V. parahaemolyticus đặc biệt gây ra AHPNS không tạo ra những độc tố này. Do đó, các tác động về sức khỏe đối với sản phẩm tôm từ các nước bị ảnh hưởng bởi AHPNS không nên cao hơn so với sản phẩm tôm từ các nước không có AHPNS.

Bởi vì AHPNS là một bệnh lây nhiễm, một mối quan tâm lớn cho ngành là sự lây lan của bệnh. Nhiều thí nghiệm được thực hiện bởi UAZ-APL đã chỉ ra rằng tôm sống bị nhiễm và mô tôm tươi (chưa bao giờ đông lạnh) có thể truyền bệnh một cách hiệu quả cho tôm “sạch”. Điều này ngụ ý rằng tôm sống và tươi chưa được kiểm tra từ các khu vực bị ảnh hưởng có thể gây ra rủi ro cho đến khi một bài kiểm tra nhanh và đáng tin cậy để phát hiện AHPNS có sẵn. Bởi vì tác nhân AHPNS được xác định chủ yếu trong ống tiêu hóa của tôm, tôm tươi đã được đầu và lột vỏ có ít rủi ro hơn so với tôm tươi giữ nguyên đầu và chưa lột vỏ.

Về khả năng tồn tại và sống sót của tác nhân AHPNS trong các sản phẩm tôm đông lạnh, một số thí nghiệm được thực hiện bởi UAZ-APL đã phát hiện rằng tôm đông lạnh bị nhiễm thu thập từ Việt Nam không gây ra bệnh lý AHPNS trong các tôm thí nghiệm “sạch”, cho thấy vi khuẩn không được truyền.

Tất cả các bằng chứng cho đến nay cho thấy tác nhân này bị vô hiệu hóa bởi việc đông lạnh và rã đông. Điều này ngụ ý rằng các sản phẩm tôm đông lạnh khó có thể mang theo tác nhân lây truyền của AHPNS. Do đó, rủi ro lây truyền bệnh từ sản phẩm tôm đông lạnh sang tôm nuôi và hoang dã ở các nước nhập khẩu hình như là tối thiểu.

Nghiên cứu trong tương lai

Các nghiên cứu trong tương lai sẽ làm sáng tỏ hơn sự tham gia của một phage trong việc sản xuất độc tố hoặc tạo ra khả năng gây bệnh tăng cường cho vi khuẩn. Các độc tố và các gen sản xuất độc tố từ các chủng vi khuẩn gây ra AHPNS sẽ được phân tích như các mục tiêu tiềm năng cho kiểm tra enzyme liên kết miễn dịch và chẩn đoán bằng phản ứng chuỗi polymerase. Nhiều phương pháp đang được điều tra để phát triển các giải pháp khả thi cho việc phát hiện và kiểm soát AHPNS.

(Chú thích của biên tập viên: Bài viết này được xuất bản lần đầu tiên trong số báo in tháng 7/tháng 8 năm 2013 của Global Aquaculture Advocate.)

Nguồn : https://www.globalseafood.org/advocate/ems-ahpns-infectious-disease-caused-by-bacteria/

Leave a comment