Tác động tích cực của SB đối với hiệu suất tăng trưởng của tôm chân trắng
Trước tiên, chúng tôi đã nghiên cứu tác động của SB ở các tỉ lệ 0%, 0.04%, 0.2% và 1% lên hiệu suất tăng trưởng của tôm chân trắng trong 4 tuần tại môi trường phòng thí nghiệm. Các chỉ số về hiệu suất tăng trưởng, bao gồm trọng lượng cơ thể (BW), độ dài cơ thể (BL), tiêu thụ thức ăn, và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) của từng nhóm được đo tại các thời điểm xác định. Nhóm chứng và ba nhóm điều trị (SB 0.04%, SB 0.2% và SB 1%) có trọng lượng cơ thể ban đầu lần lượt là 3.26 g, 3.27 g, 3.29 g và 3.31 g. Không có sự khác biệt đáng kể nào giữa bốn nhóm này. Nhóm chứng và ba nhóm điều trị đều cho thấy trọng lượng cơ thể trung bình tăng lên (13.68%, 14.05%, 17.99% và 20.34%, tương ứng) sau 2 tuần điều trị. Có sự khác biệt thống kê giữa nhóm chứng và hai nhóm điều trị (SB 0.2% và SB 1%). Sau 4 tuần điều trị, trọng lượng cơ thể trung bình tăng thêm (33.5%, 36.25%, 47.23%, và 54.43%, tương ứng) cũng cho thấy sự khác biệt thống kê giữa nhóm chứng và hai nhóm điều trị (SB 0.2% và SB 1%).
Nhóm chứng và ba nhóm điều trị có chiều dài cơ thể trung bình ban đầu lần lượt là 65.75 mm, 65.85 mm, 65.68 mm và 66.11 mm. Không có sự khác biệt đáng kể nào giữa các nhóm. Ở thời điểm 2 tuần sau điều trị, chiều dài cơ thể trung bình cũng tăng lên (2.90%, 13.20%, 4.82% và 5.53%, tương ứng). Có sự khác biệt thống kê giữa nhóm chứng và hai nhóm điều trị (SB 0.2% và SB 1%). Trong 4 tuần sau điều trị, nhóm này vẫn cho thấy chiều dài cơ thể trung bình tăng đáng kể (6.63%, 7.45%, 12.30%, và 13.37%, tương ứng).
Ngoài ra, nhóm chứng và ba nhóm điều trị cũng có trung bình FCR lần lượt là 1.76, 1.77, 1.53, và 1.42, cho thấy sự khác biệt thống kê giữa nhóm chứng và hai nhóm điều trị. Dữ liệu trên cho thấy SB đã thúc đẩy hiệu suất tăng trưởng của tôm một cách phụ thuộc liều và liều tối thiểu hiệu quả là 0.2%.
Do chất lượng nước quan trọng trong quá trình nuôi tôm, chúng tôi tiếp theo điều tra các chỉ số chất lượng nước trong 28 ngày tại môi trường phòng thí nghiệm. Nhiệt độ trung bình của nước trong bốn nhóm tôm là 28.11–28.55 °C, độ mặn trung bình là 15.17–15.96%, và giá trị pH trung bình là 7.96–8.56.
Cuối cùng, chúng tôi đã đánh giá tác động của SB đối với sự phát triển của tôm trong một thử nghiệm thực địa kéo dài 135 ngày. Dữ liệu cho thấy trọng lượng cơ thể ban đầu của tôm trong nhóm chứng và hai nhóm điều trị lần lượt là 0.38 g, 0.37 g và 0.37 g. Không có sự khác biệt đáng kể nào trong trọng lượng cơ thể ban đầu giữa các nhóm. Các nhóm chứng và điều trị đều cho thấy trọng lượng cơ thể trung bình tăng lên sau 135 ngày (22.38 g, 25.51 g và 26.29 g, tương ứng). Có sự khác biệt thống kê giữa nhóm chứng và hai nhóm điều trị.
Chúng tôi cũng đã theo dõi chất lượng nước trong quá trình thử nghiệm kéo dài 135 ngày. Nhiệt độ nước trung bình là 29–30 °C, độ mặn trung bình là 20% và giá trị pH trung bình là 7.89–8.39.
SB bảo vệ tôm khỏi nhiễm V. parahaemolyticus
Tiếp theo, chúng tôi đã thử nghiệm tác động của SB đối với tôm trong việc bảo vệ chống lại bệnh Vibrio dựa trên tỷ lệ sống sót, số lượng vi khuẩn và bệnh lý gan tụy. Như mong đợi, nhóm NIC có tỷ lệ sống sót 100%. Tuy nhiên, nhóm IC có tỷ lệ sống sót 75%. Ngược lại, SB đã làm tăng tỷ lệ sống sót này một cách phụ thuộc liều.
Chúng tôi đã kiểm tra bệnh lý gan tụy ở năm nhóm tôm. Kết quả cho thấy, tôm ở nhóm IC có gan tụy màu vàng nhạt đến trắng so với gan tụy màu đen ở nhóm NIC. Tuy nhiên, sự điều trị bằng SB đã cải thiện bệnh lý gan tụy dựa trên màu sắc.
Các số liệu khác cho thấy SB làm giảm tổn thương gan tụy và phục hồi số lượng tế bào B, F và R trong gan tụy của tôm.
Chúng tôi cũng đã xác định số lượng vi khuẩn trong các cơ quan khác nhau của năm nhóm tôm.
SB làm tăng probiotic và giảm vi khuẩn gây bệnh trong ruột tôm
Để khám phá cơ chế mà SB ảnh hưởng đến hiệu suất phát triển và khả năng kháng Vibrio ở tôm chân trắng, chúng tôi đã phân tích vi khuẩn đường ruột của tôm bằng phương pháp giải trình tự NGS 16S rRNA. Dữ liệu cho thấy SB đã làm tăng 6 loài vi khuẩn có lợi và giảm 6 loài vi khuẩn gây hại trong ruột tôm.
Cuối cùng, chúng tôi thử nghiệm các hợp chất hoạt động của SB có khả năng thúc đẩy sự phát triển của Lactobacillus. Chúng tôi đã phân lập và tinh chế 4 hợp chất từ phần butanol của SB, bao gồm axit palmitic, axit linoleic, axit linolenic và axit stearic, với kết quả cho thấy axit linolenic có hoạt tính thúc đẩy cao hơn.
Tổng thể, SB có khả năng tăng cường hiệu suất tăng trưởng và khả năng chống lại Vibrio ở tôm chân trắng thông qua việc điều chỉnh hệ vi sinh đường ruột, cụ thể là tăng cường probiotics và các chuyển hóa kháng khuẩn của chúng.
Nguồn : https://www.nature.com/articles/s41598-024-62436-x