Scroll Top
tôm khỏe mạnh
Nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam: 10 bệnh hàng đầu người nuôi tôm nên lưu ý

Tôm là một trong những loài thủy sản được nuôi trồng phổ biến nhất tại Việt Nam. Nuôi trồng tôm có thể mang lại lợi nhuận cao, với tỷ lệ thu hoạch cao hơn và chi phí sản xuất tương đối thấp so với các loài khác khi các phương pháp nuôi trồng thủy sản bền vững và tiêu chuẩn được tuân thủ.

Tuy nhiên, các đợt bùng phát bệnh dịch trong hai thập kỷ qua đã dẫn đến sự giảm mạnh về sản lượng tôm và thách thức cho Việt Nam trong việc khẳng định vị trí của mình như một nhà lãnh đạo tôm toàn cầu.

Các bệnh này có thể do vi khuẩn, nguyên sinh động vật, hoặc virus. Sự phát triển của chúng thường được kích thích bởi các yếu tố dinh dưỡng hoặc môi trường kém, cung cấp thức ăn cho các mầm bệnh hoặc gây áp lực miễn dịch lên tôm.

Để hỗ trợ cộng đồng nuôi trồng tôm địa phương, chúng tôi đã biên soạn một danh sách Top 10 Mối Đe Dọa Bệnh Dịch đối với ngành nuôi trồng tôm Việt Nam hiện nay:

  • Bệnh Phân Trắng (WFD)
  • Bệnh Đốm Trắng (WSD)
  • Hội chứng suy tiêu tụy vi khuẩn nhỏ (HPM)
  • Hội chứng Tử vong Sớm (EMS)
  • Bệnh Sáng Vibri (Luminous Vibriosis)
  • Bệnh Vỏ (Shell Disease)
  • Bệnh Vi khuẩn Sợi (Filamentous Bacterial Disease)
  • Nhiễm ký sinh trùng roi (Ciliate Infestation)
  • Hội chứng Vỏ Mềm Mãn tính (Chronic Soft-Shell Syndrome)
  • Bệnh Mang Đen (Black Gill Disease)

Các Bệnh Lớn trong Sản Xuất Tôm ở Việt Nam

Bệnh Phân Trắng

Bệnh Phân Trắng (WFD) là một bí ẩn khó giải cho ngành bệnh học thủy sản, vì nguyên nhân chính xác của nó vẫn chưa được biết. Một triệu chứng phổ biến của WFD ở tôm là sự thay đổi màu sắc của ruột. So với một con tôm bình thường, ruột có màu trắng nhợt thay vì màu nâu đậm. Phân do tôm thải ra cũng nổi hơn bình thường vì phân màu trắng lơ lửng trên mặt ao. Vỏ ngoài của tôm bị nhiễm bệnh trở nên lỏng lẻo, và có sự đổi màu đen trên mang.

Nghiên cứu cho thấy tôm mắc WFD mất cảm giác ngon miệng và thậm chí có thể đạt tỷ lệ tử vong lên tới 60%. Bệnh Phân Trắng liên quan đến nhiều yếu tố môi trường như chất lượng nước kém, tích tụ bùn đáy ao và nở hoa plankton. Một số phương pháp nuôi trồng như mật độ nuôi cao và quản lý thức ăn kém cũng đã được kết nối với bệnh.

Vì nguyên nhân chính xác của WFD vẫn chưa được biết, nên việc tuân theo các phương pháp tốt nhất về an toàn sinh học và quản lý nước là cách tốt nhất để giảm nguy cơ xuất hiện bệnh.

Bệnh Đốm Trắng

Hình 1. Hội chứng đốm trắng ở tôm. (Hossain và cộng sự, 2014. Tỷ lệ lưu hành và phân bố của Virus hội chứng đốm trắng ở tôm nuôi.)

Năm 2014, một đợt bùng phát virus Hội chứng Đốm Trắng (WSSV) ở Việt Nam đã làm giảm sản lượng tôm địa phương từ 1-1.5 tấn mỗi hecta xuống còn 200 kg hoặc ít hơn. Virus gây ra bệnh Đốm Trắng (WSD) với các triệu chứng bao gồm các đốm trắng trên vỏ ngoài, với kích thước dao động từ vừa nhìn thấy được đến 3 mm đường kính.

Tuy nhiên, các đốm trắng thực sự không phải là dấu hiệu đáng tin cậy để chẩn đoán bệnh vì chúng cũng có thể do các yếu tố môi trường như độ pH cao của nước hoặc thậm chí do một số vi khuẩn khác gây ra. Tôm bị ảnh hưởng bởi WSD thể hiện sự mất cảm giác ngon miệng và bơi bất thường.

Quan trọng là người nuôi cần kiểm tra xem đàn tôm có chứa WSSV không và phải tiêu hủy đàn tôm ngay khi chứng minh được chúng bị nhiễm bệnh. Chất lượng nước phải được kiểm tra, làm sạch và giám sát định kỳ để tránh các nguồn nhiễm bệnh.

Bệnh Hepatopancreatic Microsporidiosis

Microsporidia tạo bào tử gọi là Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là nguyên nhân chính của bệnh Hepatopancreatic microsporidiosis (HPM). Bệnh này đang lan rộng qua các trang trại tôm ở các nước Châu Á, như Philippines, gây ra tổn thất lớn cho ngành công nghiệp. Tôm bị nhiễm EHP khi chúng ăn thức ăn và phân từ tôm đã bị nhiễm trước đó. Một triệu chứng phổ biến của bệnh là một chất lỏng màu trắng sữa xuất hiện trên vùng bụng của tôm. Mặc dù HPM không được biết đến là nguyên nhân gây tỷ lệ tử vong cao ở tôm, nhưng được báo cáo là sản xuất ra tôm nhỏ hơn.

Không có phương pháp chữa trị nào được biết đến cho HPM. Một ao bị nhiễm bệnh phải được khử trùng kỹ lưỡng và thêm clo trước khi được tái đặt vật nuôi. Do các biện pháp khử trùng rộng lớn cần được thực hiện, phòng ngừa là cách tiết kiệm chi phí nhất để giảm thiểu tác động của nó. Người nuôi cần thường xuyên làm sạch và khử trùng nước ao và phải theo dõi sự hiện diện của EHP trong thức ăn chung cho giống. Trứng cũng nên được khử trùng bằng cách sử dụng nước có clo.

Hội chứng Tử vong Sớm

Còn được gọi là “bệnh hoại tử gan tụy cấp tính” (AHPND), Hội chứng Tử vong Sớm do Vibrio parahaemolyticus gây ra ở tôm Penaeid. Nó ảnh hưởng đến giai đoạn ấu trùng sau và có thể được chẩn đoán khoảng 20-30 ngày sau khi thả giống. Theo các báo cáo, bệnh có thể gây ra tỷ lệ tử vong lên đến 100% ở tôm Penaeid.

Để phòng tránh, người nuôi cần tập trung vào chất lượng giống và ấu trùng sau (PL). Các phương pháp quản lý trang trại, như làm sạch đáy ao và chuẩn bị nước ao, xác định mật độ thả giống, chọn thức ăn và phương pháp cho ăn, và theo dõi sự biến động chất lượng nước phải được tuân thủ vì những yếu tố này được tìm thấy liên kết với các đợt bùng phát AHPND. De Schryver và cộng sự (2014) phát hiện rằng mặc dù việc khử trùng ao là quan trọng, nhưng được khuyến nghị nuôi tôm trong nước có hệ vi sinh vật đa dạng. Điều này có thể được thực hiện bằng cách thêm probiotics vào nước ao.

Bệnh Sáng Vibri

Một trong những vấn đề bệnh lớn trong nuôi tôm giai đoạn phát triển là Bệnh Sáng Vibri. Bệnh này, do vi khuẩn Vibrio harveyi, V. splendidus và các vi khuẩn phát quang khác gây ra, ảnh hưởng đến trứng, ấu trùng, ấu trùng sau và tôm non. Vibriosis làm suy yếu ấu trùng và tôm non. Ấu trùng trở nên mờ đục trắng trong khi tôm non có các phần trên cơ thể bị đổi màu.

Như tên gọi của bệnh cho thấy, ấu trùng phát sáng màu xanh khi ở trong bóng tối hoàn toàn. Bệnh Sáng Vibri có thể gây chết cho tôm và có khả năng giết chết đến 100% dân số tôm. Vào năm 2008, tỉnh dẫn đầu của Việt Nam trong nuôi trồng tôm cường độ cao, Negros Occidental, đã trải qua một đợt bùng phát bệnh khiến chỉ còn 20% các ao nuôi hoạt động.

Để phòng tránh, tốt nhất là theo dõi tôm trong giai đoạn đầu và kiểm tra vi khuẩn hiện diện thông qua các bài kiểm tra mẫu nước định kỳ. Cũng được khuyến khích tạo đa dạng vi sinh vật trong nước để loại trừ cạnh tranh các mầm bệnh bằng cách sử dụng probiotics.

Bệnh Vỏ

Bệnh Vỏ, còn được gọi là Bệnh Đốm Nâu/Đen, Thối Đen, hoặc thậm chí là Hoại tử các Phần Phụ là do vi khuẩn phá vỡ vỏ trong các họ Vibrio, Aeromonas và Pseudomonas gây ra. Bệnh này ảnh hưởng đến tôm từ giai đoạn ấu trùng cho đến khi trưởng thành. Trong giai đoạn ấu trùng và ấu trùng sau, chi bị ảnh hưởng có vẻ ngoài giống như đầu thuốc lá – màu nâu đậm và tro với các bóng nước rõ ràng. Những bóng nước thường chứa một chất có kết cấu như gel và có thể xuất hiện đủ lớn để tạo thành một phồng lên trên cơ thể của tôm.

Bệnh có thể gây ra vấn đề với việc lột xác và có thể ăn mòn một phần lớn các bóng nước gây ra mùi hôi cho nước. Tôm bị ảnh hưởng cũng có thể trở nên ăn thịt đồng loại hoặc chết vì stress.

Quan trọng là phải duy trì chất lượng nước tốt để ngăn chặn bệnh vỏ. Gánh nặng hữu cơ của nước phải được duy trì ở mức thấp bằng cách loại bỏ tôm chết và vỏ lột có thể chứa hoặc nuôi dưỡng vi khuẩn không mong muốn.

Bệnh Vi khuẩn Sợi

Bệnh Vi khuẩn Sợi là một bệnh khác mà người nuôi tôm cần phải lưu ý. Bệnh này do Leucothrix sp. gây ra và có thể ảnh hưởng đến tôm từ giai đoạn ấu trùng cho đến khi trưởng thành. Nếu quan sát dưới kính hiển vi, cơ thể và mang của tôm sẽ xuất hiện có sự phát triển giống như sợi màu trắng.

Khi bị nhiễm bệnh, trứng của tôm có sợi trên bề mặt có thể gây ra vấn đề với hô hấp hoặc nở trứng. Nếu mang của tôm bị ảnh hưởng, vi khuẩn chặn các bề mặt hô hấp và cũng có thể gây ra vấn đề với hô hấp. Ngoài suy hô hấp, bệnh vi khuẩn có thể khiến ấu trùng và ấu trùng sau có vấn đề với việc di chuyển và lột xác bình thường. Cũng có khả năng rằng tôm trưởng thành có thể chết.

Chất lượng nước tốt phải được quan sát và duy trì – cụ thể là, oxy hòa tan phải được duy trì ở mức cao hơn 5 ppm và mức độ chất hữu cơ phải được giữ thấp.

Nhiễm ký sinh trùng roi

Nhiễm ký sinh trùng roi là một bệnh do nguyên sinh động vật gây ra, có thể được gây ra bởi các protozoa Vorticella, Epistylis, Zoothamnium, Acineta, hoặc Ephelota trong bất kỳ giai đoạn nào của cuộc đời tôm. Các triệu chứng phổ biến bao gồm một kết cấu lông mịn trên vỏ và mang của tôm trưởng thành cũng như có mang màu đỏ đến nâu. Tôm cũng trải qua sự thiếu hụt ngon miệng và có thể gặp khó khăn khi di chuyển khi có số lượng lớn protozoa. Khi protozoa có mặt trong mang, vấn đề hô hấp cũng có thể xảy ra, đặc biệt là khi mức độ oxy hòa tan thấp.

Cách tốt nhất để tránh bệnh này là theo dõi chặt chẽ mức độ oxy hòa tan. Người nuôi cũng nên tránh gánh nặng hữu cơ cao, sự lắng đọng bùn đất nặng và đục nước vì những yếu tố này cũng ảnh hưởng đến mức độ oxy hòa tan.

Microsporidiosis

Microsporidiosis là một bệnh do nguyên sinh động vật khác. Còn được gọi là Buồng trứng Trắng hoặc Nhiễm trùng Microporidian, bệnh này do microsporadia – nguyên sinh động vật chỉ có thể được nhìn thấy trên các mô bị nhiễm dưới kính hiển vi. Tôm trưởng thành và non thường biểu hiện bệnh khi có các mô hoặc cơ quan chuyển sang màu trắng đục.

Ký sinh trùng có thể thay thế mô bị ảnh hưởng và có thể gây vô sinh ở tôm, làm cho buồng trứng chuyển sang màu trắng. Mặc dù tỷ lệ nhiễm trùng thường ít hơn 10%, ký sinh trùng Microsporadia có khả năng cao gây ra microsporidiosis.

Để ngăn chặn sự phát triển của nguyên sinh động vật, làm sạch cơ sở nuôi cấy bằng các hợp chất chứa clo hoặc iốt là một phương pháp tốt. Tôm bị nhiễm bệnh phải được cô lập và tiêu hủy bằng cách đốt hoặc luộc. Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự lây lan của bệnh là xác định các loài chứa dịch và ngừng phát triển cho sản xuất thương mại.

Hội chứng Vỏ Mềm Mãn tính

Bệnh ở tôm cũng có thể được gây ra bởi sự thiếu hụt dinh dưỡng, như được thể hiện bởi Hội chứng Vỏ Mềm Mãn tính. Còn được gọi là vỏ mềm, tôm phát triển một lớp vỏ mỏng và liên tục mềm trong nhiều tuần. Bề mặt vỏ thường tối, thô và nhăn, làm yếu tôm.

Khác với quá trình lột xác bình thường, vỏ của tôm bị nhiễm bệnh không sạch và mượt và mất thời gian dài hơn 1-2 ngày bình thường để cứng lại. Vì tôm quá yếu và dễ bị tổn thương hơn vì vỏ mềm, chúng phát triển rất chậm và cuối cùng chết. Tôm yếu dễ bị tổn thương hoặc thậm chí bị tôm trong cùng một bể ăn.

Để giảm khả năng của Vỏ Mềm, ao hoặc bể được sử dụng phải được xả sạch kỹ lưỡng sau khi thu hoạch, đặc biệt nếu nhiễm bẩn bởi thuốc trừ sâu có thể xảy ra. Thức ăn bổ sung, như thịt trai, có thể được cung cấp cho tôm để bổ sung những chất dinh dưỡng cần thiết này.

Bệnh Mang Đen

Bệnh Mang Đen có thể được gây ra bởi sự thiếu hụt axit ascorbic trong chế độ ăn của tôm, cũng như các chất ô nhiễm có thể có trong nước – như cadmium, đồng, dầu, amoniac và nitrat. Gánh nặng hữu cơ cao do thức ăn dư thừa hoặc mảnh vụn trong khu vực chứa cũng có thể gây ra điều này, vì nó dẫn đến mức độ nitơ cao ở các dạng độc hại cho tôm.

Bệnh gây ra các dấu hiệu vật lý như sự thay đổi màu sắc hoặc một chất hình thành trên mặt sau của tôm. Nó cũng có thể gây ra mất cảm giác ngon miệng, khó khăn trong hô hấp, nhiễm trùng thứ cấp bởi các dịch hại và có thể dẫn đến cái chết.

Để tránh điều này, tôm không bao giờ được cho ăn quá mức. Như với các phương pháp khác, giữ cho khu vực chứa sạch sẽ và thuận lợi cho việc nuôi trồng tôm.

Quản lý Bệnh trong Nuôi trồng Thủy sản

Các phương pháp điều trị cho những bệnh này hạn chế và tốn kém. Mặc dù một số loại kháng sinh có thể được sử dụng, cách tốt nhất để chống lại bệnh là phòng ngừa.

Điều này được thực hiện tốt nhất bằng cách đảm bảo chất lượng nước tối ưu cho sự phát triển của tôm. Dưới đây là ba yếu tố chính của việc xử lý nước tốt.

Theo dõi và thúc đẩy mức độ oxy hòa tan. Dựa trên hoạt động của vi sinh vật, điều này có thể yêu cầu thêm vào sự thông gió nhân tạo. Thực hiện đọc số định kỳ, ghi chép số liệu này trong một nhật ký hoặc bảng tính, và hành động chủ động để khắc phục mức độ nếu chúng bắt đầu giảm.

Loại bỏ tích cực sự tích tụ chất thải. Sự tích tụ chất thải đáng kể trong nuôi trồng tôm kiểu ao, đến từ thức ăn thừa, phân tôm, và xác tôm chết. Tất cả các nguyên liệu hữu cơ phân hủy này có thể là nguồn thức ăn cho các loại vi khuẩn hoặc nguyên sinh động vật gây bệnh này. Amoniac là một chỉ số tốt giữa mùa của mức độ chất thải hữu cơ. Theo dõi mức độ amoniac ít nhất hàng tuần (lý tưởng là hàng ngày) và hành động mạnh mẽ nếu con số tăng lên.

Thực hiện và giám sát các tiêu chuẩn an toàn sinh học nghiêm ngặt. Loại bỏ vật lý sự ô nhiễm thông qua các kiểm tra nghiêm ngặt đối với người, nước và thiết bị được chia sẻ giữa các ao. Bằng cách tuân theo các tiêu chuẩn này, chất gây ô nhiễm có thể được loại trừ, và nếu chúng xâm nhập, có thể được giữ chứa trong các khu vực nhỏ.

Probiotics: Công cụ cho quản lý bệnh dịch chủ động Probiotics, hay vi khuẩn có lợi, là một công cụ mạnh mẽ hỗ trợ người nuôi trong việc điều trị phòng ngừa bệnh. Thông qua quá trình phân hủy nitơ và phốt pho của họ, chúng giảm thiểu tảo xanh lam và các đối thủ cạnh tranh oxy chính khác – đảm bảo mức độ oxy hòa tan khỏe mạnh. Nhiều loài, đặc biệt là của họ bacillus, phân hủy chất thải hữu cơ, phục vụ như một công cụ dọn dẹp cho sự tích tụ chất thải ở đáy ao. Hơn nữa, chúng cạnh tranh với nhiều vi khuẩn có hại – như những loại đã đề cập ở đây – về chất dinh dưỡng, giảm thiểu khả năng của chúng sống sót và nhiễm bệnh tôm.

Kết nối với đội ngũ của chúng tôi để tìm hiểu về cách probiotics thủy sản của chúng tôi có thể chủ động xử lý nước của bạn, tăng cường hệ thống miễn dịch tôm, và giúp bạn ngăn chặn những bệnh này.

Tham khảo

Leave a comment