Scroll Top
tôm khỏe mạnh
Tìm Hiểu Bệnh Phân Trắng Trong Nuôi Tôm: Nguyên Nhân và Cách Phòng Tránh

Bệnh phân trắng là loại bệnh phổ biến trong tôm nuôi, thường bắt đầu xuất hiện từ thời điểm tôm được nuôi 50 ngày trở lên. Bệnh này khó có thể được chữa trị dứt điểm và đến nay vẫn chưa có biện pháp cụ thể nào hiệu quả để điều trị hội chứng này.

Bệnh phân trắng trên tôm

Về cơ chế gây bệnh, các tác nhân gây bệnh tấn công vào hệ thống gan tụy và đường ruột của tôm, gây tổn thương và làm giảm chức năng hoạt động của các cơ quan này, dẫn đến tình trạng tôm không thể hấp thụ thức ăn. Điều này kèm theo việc tôm bị tấn công bởi các tác nhân cơ hội khác khiến tôm chết. Qua quan sát, thấy rằng các tế bào epithelial trong ống gan tụy của tôm bệnh bị bong tróc, sau đó tập trung lại tại phần nối giữa gan tụy, dạ dày và ruột giữa trước khi bị đẩy ra ngoài. Phân tích phân tôm cho thấy, thành phần chủ yếu gồm lipid, một số cấu trúc của hệ thống gan tụy và đường ruột, và thường xuyên có sự xuất hiện của ấu trùng cũng như xác của Vermiform, một loại ký sinh trùng, được cho là một trong những tác nhân gây ra bệnh phân trắng. Ngoài ra, có sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn trong hệ thống gan tụy, đường ruột và phân tôm thuộc các nhóm Vibrio parahaemolyticus, Vibrio fluvialis, và nhiều loại Vibrio khác.

Triệu chứng của ao tôm bị bệnh phân trắng

  • Tôm giảm ăn, màu sắc chuyển sang màu sậm hơn
  • Gan tụy chuyển màu lợt, mềm nhũn; ruột và phân chuyển sang màu vàng hoặc trắng
  • Tôm mềm vỏ
  • Mang chuyển sang màu tối
  • Xuất hiện các sợi phân trắng hoặc vàng nâu tại nhá hoặc nổi trên mặt ao và dồn vào góc ao hoặc cuối hướng gió.

Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh thường xuất hiện ở các ao nuôi có những đặc điểm nhất định, bao gồm:

  • Tảo tàn trước đó, nồng độ NH3 cao
  • Xuất hiện tảo lam
  • Nồng độ các chất hữu cơ cao hơn 100 ppm
  • Nồng độ Vibrio cao hơn 1 x 102 CFU/ml
  • Độ kiềm dưới 80 ppm hoặc trên 200 ppm
  • Nồng độ ôxy dưới 3 ppm trong thời gian dài
  • Nhiệt độ trên 32°C.

Các giải pháp phòng ngừa và điều trị

Điều trị:

  • Ngừng cho tôm ăn hoàn toàn trong khoảng 1 – 2 ngày.
  • Tăng cường sử dụng quạt để cung cấp nhiều ôxy nhất có thể.
  • Thay từ 30 – 50% lượng nước sạch đã được xử lý (chú ý thay chậm để tránh làm tôm sốc).
  • Tìm kiếm các biện pháp phù hợp để giảm nồng độ các chất hữu cơ trong ao (nếu thường xuyên xi phông, có thể sử dụng chất lắng tụ trước khi xi phông sạch ra ngoài. Nếu ao không được xi phông trước đó, chỉ nên sử dụng vi sinh và tránh xáo trộn đáy ao để không làm khí H2S khuếch tán vào nước, gây hại cho tôm).
  • Sử dụng vi sinh với liều lượng cao gấp 3 lần so với liều thông thường để xử lý nước và đáy ao.
  • Trộn xen kẽ vi sinh tiêu hóa và tỏi (10g/kg) vào thức ăn để cho tôm ăn (không trộn tỏi cùng với vi sinh vì tỏi có thể làm giảm hiệu quả của vi sinh).
  • Áp dụng đồng bộ các biện pháp trên trong vòng 5 ngày liên tục.

Phòng ngừa:

  • Kiểm soát nồng độ Vibrio trong ao bằng cách duy trì nồng độ thấp các chất hữu cơ, là nguồn dinh dưỡng cho Vibrio phát triển, bằng cách quản lý lượng thức ăn theo nhu cầu và theo nhiệt độ nước, xi phông loại bỏ chất thải, duy trì mật độ tảo, sử dụng vi sinh để phân hủy các chất hữu cơ đáy ao và nước.
  • Điều chỉnh lượng thức ăn theo nhiệt độ nước: Khi nhiệt độ nước cao hơn 32°C, tôm ăn nhiều hơn nhưng thức ăn đi qua hệ tiêu hóa nhanh, làm tăng lượng chất thải trong ao. Nhiệt độ cao cũng làm vi khuẩn phát triển nhanh hơn. Vì vậy, khi nhiệt độ nước tăng cao, không nên tăng lượng thức ăn mà chỉ điều chỉnh theo cách kiểm tra thông thường.
  • Bổ sung đầy đủ các chất tăng cường sức khỏe cho tôm như vitamin và khoáng chất thiết yếu.
  • Bảo quản thức ăn tốt, kiểm tra hạn sử dụng, độ ẩm, và nấm mốc.
  • Kiểm soát tốt các loại tảo độc và độ kiềm trong ao.
  • Duy trì cân bằng hệ vi khuẩn có lợi trong ao bằng cách bổ sung thường xuyên vi sinh và duy trì hàm lượng ôxy lớn hơn 5 ppm.

Leave a comment